TS. Lê Viết Khuyến
Hiệp hội các trường đại học, cao đẳng Việt Nam
- Đặt vấn đề
Ở nước ta các đại học đa lĩnh vực ra đời từ nửa đầu thập kỷ 90 của thế kỷ 20 vừa qua, dựa trên quan điểm chỉ đạo từ Nghị quyết 4 Ban chấp hành TW Khóa 7 (1993) về việc xây dựng các cơ sở giáo dục đại học trọng điểm. Tất cả các đại học này đều được hình thành chủ yếu bằng cách gom và tổ chức lại các cơ sở giáo dục đại học thường cùng một đẳng cấp và có trên cùng một địa bàn. Đây là một chủ trương đúng giúp chúng ta sớm có được những cơ sở giáo dục đại học mạnh, đa năng. Tại Tờ trình Hội đồng Bộ trưởng số 1315/ĐH ngày 17/3/1992 [7] Bộ Giáo dục và Đào tạo đã nêu rõ Đại học đa lĩnh vực “ không phải là một cơ quan quản lý trung gian mà thực chất là một đơn vị đào tạo thật sự quan trọng được lập ra trên cơ sở hợp nhất hàng loạt trường đại học và viện nghiên cứu khoa học để phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn hệ thống, bảo đảm hiệu suất đào tạo cao, thích ứng với một xã hội có nền kinh tế thị trường”. Tuy nhiên đã gần 30 năm qua đi nhưng các đại học của chúng ta được hình thành từ các năm 1993, 1994 vẫn chưa thực sự “mạnh”. Có ý kiến cho rằng ở các đại học này tầng trên “đại học” là thừa, gây cản trở đến hoạt động của các “trường đại học thành viên”; thậm chí còn có đề xuất cực đoan đòi giải thể các đại học đa lĩnh vực. Chúng ta thử làm sáng tỏ vấn đề này dưới góc độ cấu trúc quản trị của các đại học đó.
- Ba xu hướng tổ chức các cơ sở giáo dục đại học theo ngành nghề đào tạo
Trong lịch sử giáo dục đại học thế giới [1,5,9], các cơ sở giáo dục đại học được tổ chức hoặc riêng cho từng lĩnh vực ngành nghề đào tạo, hoặc chung cho nhiều lĩnh vực ngành nghề đào tạo. Ở trường hợp thứ nhất ta có các trường đại học chuyên ngành, còn trong trường hợp sau – có các đại học đa lĩnh vực.
2.1. Trường đại học chuyên ngành là mô hình trường đại học rất phổ biến ở các quốc gia châu Âu lục địa. Lĩnh vực ngành đào tạo ứng với mỗi trường nằm trong một phổ khá rộng, có thể từ rất hẹp (thí dụ: trường Kiến trúc, trường Điều dưỡng, trường Cầu – Đường…), tương đối rộng (Thí dụ: trường Nông nghiệp, Trường Kỹ thuật Công nghiệp,…) hoặc khá rộng (thí dụ: trường Tổng hợp). Trừ trường Tổng hợp (Universitet) ra, tên gọi tiếng Anh của các trường đại học chuyên ngành thường là College hay Academy / Institute.
Về mặt quản trị, các trường đại học chuyên ngành thường có cấu trúc 2 cấp. Dưới cấp trường (College) là cấp khoa (Deparment) thực hiện một số chương trình đào tạo tương ứng với một ngành đào tạo (Fild of study). Việc tổ chức thêm cấp bộ môn (Division) rất hãn hữu vì các trường thường đào tạo theo ngành rộng ở trình độ đại học.
2.2. Đại học đa lĩnh vực là mô hình trường rất phổ biến trên thế giới, đặc biệt tại Anh quốc, các quốc gia Bắc Mỹ (Hoa Kỳ, Canada), Đông Á (Nhật bản, Hàn quốc, Đài loan, Trung quốc,…), Đông Nam Á (Singapore, Malaysia, Thái lan, Indonesia,…). Tên gọi tiếng Anh của loại trường này là University. Từ điển thuật ngữ giáo dục của Hoa Kỳ định nghĩa: University là một cơ sở giáo dục bao gồm nhiều trường thành viên, trong đó phải có 1 trường khoa học cơ bản (Liberal art college), một số chương trình sau đại học và phải có từ 2 hoặc nhiều hơn các trường chuyên ngành (College/Faculty/ School) và phải đủ năng lực để có thể cấp văn bằng cho nhiều lĩnh vực đào tạo khác nhau.
Về mặt quản trị, các đại học đa lĩnh vực thường có cấu trúc 3 cấp [1]: cấp đại học (University), cấp trường và tương đương (College/Faculty/School) và cấp khoa (Deparment). Cấp trường tương đương với một lĩnh vực đào tạo (thí dụ: khoa học tự nhiên, khoa học xã hội – nhân văn, kỹ thuật, quản trị kinh doanh, y, nông nghiệp,…), còn cấp khoa tương đương với một hoặc một vài ngành đào tạo gần nhau. Thường không có cấp bộ môn (Division) do các đại học đa lĩnh vực thường đào tạo diện rộng ở trình độ cử nhân.
Ở một số quốc gia như Hoa Kỳ, Anh… các trường đại học mạnh (chuyên ngành hoặc đa lĩnh vực) , thường cùng một đẳng cấp, có thể liên kết lỏng lẻo với nhau để hình thành những Tập đoàn đại học (The University Corporation)[8]. Thí dụ như: tập đoàn University of Cali. (gồm 10 đại học đa lĩnh vực), Tập đoàn Cali. State University (gồm 23 đại học đa lĩnh vực), Tập đoàn Oxfort U. (gồm 35 trường), Tập đoàn Cambridge U. (gồm 31 trường)… Tuy nhiên hiểu các tập đoàn đại học này như những đại học đa lĩnh vực có 4 cấp quản lý là không đúng. Tương tự cũng không thể xem các trường thành viên trong các đại học đa lĩnh vực như những cơ sở giáo dục đại học độc lập (Theo Vũ Quang Việt, 2014) [8].
Nét nổi trội của các đại học đa lĩnh vực là do bao quát được nhiều lĩnh vực đào tạo khác nhau nên chúng cho phép huy động được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống để giải quyết các nhiệm vụ to lớn về đào tạo và nghiên cứu khoa học mà một trường đại học chuyên ngành không thể đảm đương nổi. Đó là: tạo cơ hội cho từng giảng viên được đi sâu vào chuyên môn của mình, cho phép người học được lựa chọn để học với những người thầy giỏi nhất, cho phép nhà trường mở ra các chương trình liên ngành một cách nhanh nhất. Chính vì vậy đại học đa lĩnh vực thường được nhiều nước trên thế giới ưu tiên lựa chọn. Tại nhiều nước, đặc biêt ở các nước đang phát triển, có khuynh hướng chuyển đổi các đại học chuyên ngành thành các đại học đa lĩnh vực .
2.3. Ở các quốc gia chấp nhận nền kinh tế theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung, như các nước xã hội chủ nghĩa trước đây, trong đó có Việt Nam, các cơ sở giáo dục đại học thường được tổ chức theo từng lĩnh vực kinh tế-xã hội, thí dụ như: trường đại học tổng hợp, trường đại học kinh tế, trường đại học sư phạm, trường đại học kỹ thuật công nghiệp,… Cách tổ chức như vậy gắn rất chặt với cơ chế bộ chủ quản: mỗi trường đại học luôn thuộc về một bộ chủ quản. Điều này hoàn toàn khác với bản chất tự chủ của các đại học đa lĩnh vực, rất thích hợp với cơ chế tự chủ trong nền kinh tế thị trường.
Về đại thể, các trường đại học được tổ chức theo từng lĩnh vực kinh tế-xã hội, thực chất cũng là các trường đại học chuyên ngành. Do có nhiệm vụ đáp ứng yêu cầu nhân lực theo đơn hàng cụ thể của nhà nước nên các trường loại này thường đào tạo theo các chuyên môn khá sâu, thường gắn với sứ mệnh cụ thể của cơ sở giáo dục đại học. Thí dụ như trong khi các đại học đa lĩnh vực chỉ đào tạo các chương trình kỹ thuật xây dựng công trình (Civil Engeneering) thì các trường đại học chuyên ngành có thể có các chương trình chuyên sâu như: kỹ thuật xây dựng công trình dân dụng và công nghiệp, kỹ thuật xây dựng công trình biển, kỹ thuật xây dựng công trình ngầm, kỹ thuật xây dựng cầu – đường bộ, kỹ thuật xây dựng cầu – đường sắt,… Vì các chương trình hướng vào việc đào tạo ra những chuyên gia có thể làm việc độc lập khi ra trường nên thời gian đào tạo của các trường đại học chuyên ngành thường phải từ 5 năm trở lên.
Về mặt quản trị, các trường đại học chuyên ngành được tổ chức theo từng lĩnh vực kinh tế-xã hội thường có cấu trúc 3 cấp. Dưới cấp trường (College, Academy/ Institute), là cấp khoa (Facultet, Department), tương ứng với một ngành đào tạo. Để hướng tới đào tạo chuyên sâu, ở các trường đại học chuyên ngành kiểu này, dưới cấp khoa còn có thêm cấp Bộ môn (Kafedra, Division) thường tương ứng với một chuyên ngành. Đặc điểm này cần phải được quan tâm khi xây dựng các đại học đa lĩnh vực trên cơ sở hợp nhất các trường đại học chuyên ngành, giống như ở Việt Nam trong các thập niên vừa qua.
(Còn nữa)
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM
- Tập huấn đánh giá chương trình đào tạo theo bộ tiêu chuẩn AUN-QA
- Samsung nhận thêm cú sốc khi mất hợp đồng sản xuất chip cho Tesla về tay TSMC
- Tư vấn xây dựng chiến lược, chỉ tiêu phát triển cơ sở giáo dục đại học
- AI trong đào tạo các ngành khoa học sức khỏe
- Tập huấn nâng cao kỹ năng công bố bài báo quốc tế