ĐẠI HỌC HOA KỲ

how stand out applying us universities4 tips 1

Bài viết này khảo sát hệ thống đại học Mỹ hiện nay nhằm giúp những nhà làm chính sách giáo dục, hoặc những người đang quản lý giáo dục tại các trường đại học ở Việt Nam có cái nhìn so sánh.

Giới thiệu về tác giả Vũ Quang Việt: Tốt nghiệp PhD về kinh tế năm 1980 tại New York University, từng là Vụ trưởng Vụ Tài khoản quốc gia, Cục Thống kê Liên Hợp Quốc.

Đại học Mỹ nói chung được dựng lên theo mô hình đại học mà Humboldt dựng lên ở Đức năm 1909.

 “[Humboldt] chống lại cả hai: chống đại học thừa hưởng từ gia tài của Nhà thờ, và chống tư tưởng thực dụng đang dấy lên từ các trường nghề nghiệp vừa mọc. Các trường nghề nghiệp muốn tống nghiên cứu “thực dụng” ra khỏi đại học để giành lấy phần đó; nguy cơ của đại học là cũng muốn tống nghiên cứu “thuần túy” ra khỏi giảng dạy để giao riêng mảng đó cho một Viện gì đấy chỉ chuyên đào sâu kiến thức cho mình chứ không dính  dáng  gì  đến  việc  đào  tạo  kiến  thức  cho người học . Cái thần của Humboldt là hiểu rằng tách nghiên cứu thực dụng ra khỏi nghiên cứu thuần túy là giết chết cả hai: giết đại học, vì đại học cụt cả hai tay, giết nghiên cứu và khoa học, vì cắt lý thuyết ra khỏi áp dụng thực tiễn và cắt thực tiễn ra khỏi tư duy lý thuyết. Từ đó, ông dung hòa: giao cho đại học lĩnh vực kiến thức  thuần túy  (khám phá  sự  thật) nhưng đồng  thời ghép vào đó một chức năng “thực tiễn” là đào tạo, bởi vì có biết thì mới nên người.

Hiện nay đại học hàng đầu của Mỹ, dù có nghiêng về phần thực dụng hơn trước, như cho phép ký kết hợp tác nghiên cứu với doanh nghiệp, vẫn theo đuổi những mục tiêu quan trọng nhất của triết lý “khai sáng”, như phát huy tư duy độc lập, tự do khách quan nhằm đóng góp vào tri thức nhân loại, đồng thời giúp sinh viên khi ra trường có trách nhiệm xã hội, có khả năng sống và làm việc theo tiềm năng, tức là có việc làm và nếu có tiềm năng có thể đóng góp vào sự phát triển cho xã hội về mọi mặt.

Đại học cũng có thể làm nhiệm vụ dạy nghề, nhưng nó không phải là trường dạy nghề.

Trách nhiệm xã hội của đại học lớn hơn, đó là “khai sáng”, do đó mà đại học phải có mục đích mở rộng trí tuệ sinh viên bằng tri thức mới; khai phá, lắng nghe và tôn trọng những ý kiến mới khác mình, có tinh thần hợp tác cộng đồng và chấp nhận trách nhiệm hành vi cá nhân của mình.

Chính vì tính chất khai sáng, tự do tư duy và phát biểu ý kiến mà áp dụng mô hình Mỹ có thể gặp khó khăn ở nhiều nước trên thế giới. Nhưng cũng chính vì mô hình khai sáng mà Mỹ đã trở nên dẫn đầu thế giới về khoa học và phát minh, đồng thời  ngày  càng  không thua  kém  các  nước phương Tây khác về các trào lưu tư tưởng, văn học và nghệ thuật.

Vài nét về giáo dục ở Mỹ

Vai trò của Bộ Giáo dục chính quyền Liên bang Mỹ rất hạn chế. Ở Mỹ có hai bậc Bộ Giáo dục, một của liên bang và một ở mỗi tiểu bang, vì nước Mỹ là loại nước liên bang, mỗi bang có hiến pháp riêng. Quyết định của Bộ Giáo dục Liên bang chỉ có tính cách tư vấn nếu như không được Quốc hội Mỹ thông qua hoặc chỉ ảnh hưởng đến các chương trình do ngân sách liên bang tài trợ.

Ngân sách của Bộ Giáo dục Liên bang hằng năm rất nhỏ so với tổng chi phí cho nền giáo dục Mỹ. Năm 2007, Ngân sách Liên bang cho giáo dục khoảng dưới 68 tỷ, chỉ bằng gần 7% tổng chi phí cho giáo dục mọi cấp là 1.000 tỷ USD.Trong chi phí này, chỉ có 12% (9 tỷ) phải sử dụng theo luật định (mandatory), còn 88% (59 tỷ) được sử dụng tùy theo quyết định của chính phủ (discretionary). Tức là khoản chi vì luật đòi hỏi rất ít, việc chi cho giáo dục của Chính phủ Liên bang liên quan chủ yếu đến việc cho vay đi học, huấn nghệ sau trung học, việc giáo dục cho những người khuyết tật, và việc đi học đại học của binh sĩ giải ngũ, v.v.

Như vậy đến 93% chi phí cho giáo dục là do tư nhân tự trả hay ngân sách địa phương chịu trách nhiệm. Các bang hiện nay đều áp dụng giáo dục phổ thông cưỡng bách (thường là cho đến lớp 12), do đó mà hiện nay ở Mỹ 90% học sinh phổ thông học ở trường công miễn phí. Trong 10% còn tại thì 78% là học ở trường tư thuộc Giáo hội Công giáo.

Ngay ở cấp đại học, 77% sinh viên cũng theo học tại các đại học công lập, mặc dù tỷ lệ các đại học tư là lớn hơn. Ta thấy số đại học 2 năm ở Mỹ, chủ yếu nhằm vào huấn nghệ, phần lớn là đại học công do chính sách của chính phủ khuyến khích thanh niên đi học để có việc làm.

Số lượng các trường đại học và các loại và tỷ lệ năm 2007-2008
Số đại họcTỷ lệ
Đại học 4 năm2.675100%
Công65324%
2.02276%
Vô vị lợi1.53257%
Vị lợi49018%
Đại học 2 năm1.677100%
Công1.03262%
64538%
Vô vị lợi925%
Vị lợi55333%

Các đại học tư quan trọng ở Mỹ, chủ yếu là trường vô vị lợi, lấy học phí rất cao như Đại học Harvard vào năm 2010 tính học phí tới 35.000 USD/ năm, và nếu kể cả chi phí ăn ở và sách vở có thể lên tới 50.000 USD/năm.

Học phí ở đại học công thấp hơn, như Đại học California tại Berkeley là trường đại học nghiên cứu hàng đầu của Mỹ lấy học phí khoảng 15.000 USD/năm; chi phí khác cũng tương tự như đại học tư nếu sinh viên không ở với gia đình. Các  đại  học  cộng  đồng  (công  lập)  chương trình  2  năm thường có học phí rất thấp; như ở thành phố New York, học phí chỉ có 3.100 USD/năm, Đại học nghiên cứu ở thành phố New York (CUNY) cũng chỉ có học phí 4.600 USD/năm.

Nói tóm lại trường tư vì lợi nhuận không phải là giải pháp mà Mỹ chọn lựa để giải quyết vấn đề giáo dục. Tuy vậy khoảng trên 10 năm qua, số đại học tăng khá nhanh là đại học vì lợi nhuận, nhiều trong số các trường đại học này đang bị chính quyền điều tra vì tính chất bịp bợm của chúng.

Nhằm tạo cho sinh viên chọn lựa cơ hội học vừa theo đúng năng lực, vừa phù hợp với khả năng tài chính, ở mỗi bang, và ở những thành phố lớn, chính quyền địa phương thường thiết lập một hệ thống đại học với nhiều tầng lớp, có đại học nghiên cứu cấp bằng tiến sĩ (Ph.D.), có đại học chỉ cấp bằng cử nhân và có đại học cộng đồng 2 năm, đặt trọng tâm huấn nghệ hơn là khai sáng. Những đại học cấp cao hơn đòi hỏi điều kiện cao hơn về học lực trong việc thu nhận sinh viên.

Để bảo đảm bình đẳng, dù là công hay tư, đại học ở Mỹ đều có chương trình cấp học bổng hay cho vay đối với sinh viên nghèo. Nhiều trường chủ trương hướng tới tuyển dụng sinh viên dựa trên khả năng học lực, tức là về vấn đề tài chính nhà trường sẽ giúp đỡ qua chương trình cấp học bổng hay cho vay.

Đại học Mỹ như những hệ thống

Hiện nay nước Mỹ gồm có hơn 4.300 đại học . Nhiều bang và cả ở cấp thành phố đều có thiết lập đại học theo hệ thống, từ đó phân cấp sinh viên theo nhu cầu và khả năng nhưng lại tạo ra sự liên thông. Điển hình là bang California, có 3 hệ thống:

Hệ thống đại học nghiên cứu là Đại học California (UC) có 10 đại học độc lập về tuyển dụng giáo sư, sinhviên và chương trình học ở các địa phương khác nhau nhưng đều chịu sự quản lý về phát triển, chất lượng hàn lâm, tuyển dụng của một Hội đồng Quản trị (Board of  Regents) gồm 26  người,  trong  đó  có  18  người  có nhiệm kỳ 12 năm do Thống đốc Bang bổ nhiệm, còn những người khác là quan chức cao cấp về hưu (như thống đốc, chủ tịch hạ viện, thượng viện, v.v.) có nhiệm kỳ 1-2 năm. Hội đồng quản trị có nhiệm vụ tuyển chọn Viện trưởng các đại học thành viên, xem xét các chương trình phát triển và chuẩn mực giáo dục.

Hệ thống đại học tiểu bang California (CSU) gồm 23 đại học thành viên chỉ cấp đến bằng thạc sỹ (Master of Arts hoặc Master of Science). Tổ chức cũng tương tự như UC.

Hệ thống đại học cộng đồng California (California Community Colleges) có rất nhiều đại học thành viên ở các thành phố, thường chỉ có chương trình học 2 năm. Sinh viên khá sau khi tốt nghiệp có thể nộp đơn học chuyển tiếp vào UC hay CSU. Như vậy khi nói đến đại học ở Mỹ, là nói đến đại học thành viên chứ không phải hệ thống đại học. Không phải mọi bang đều theo mô hình của bang California. Bang NewYork ở cấp bang thì theo mô hình UC, nhưng ở thành phố thì lại có mô hình riêng. Thí dụ, thành phố New York có hệ thống đại học nghiên cứu riêng với ngân sách riêng vừa do bang vừa do thành phố cung cấp, do đó Hội đồng Quản trị của nó có một số do Thống đốc Bang bổ nhiệm và một số do thị trưởng bổ nhiệm. Ngoài ra thành phố New York cũng có hệ thống đại học cộng đồng riêng của thành phố.

Các loại đại học

Đại học Mỹ chủ yếu chia thành những loại sau:

College: Thường là college of liberal arts, có thể dịch là trường đại học khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn, dù chữ liberal thực chất có nghĩa là khai phóng, tự do tư duy theo đúng tinh thần mà Humboldt mong muốn một đại học đạt được. Đây là những đại học có chương trình 4 năm, cấp bằng cử nhân (Bachelor of Arts), dạy nhiều ngành về khoa học tự nhiên như toán, vật lý, hóa học, sinh học, và khoa học nhân văn như tâm lý, chính trị, nhân chủng, xã hội, âm nhạc, mỹ thuật. Mỗi ngành được tổ chức thành một khoa (department). College chỉ được tính là đại học khi nó đứng một mình chứ không nằm trong một viện đại học nào.

University:  có thể dịch là (viện) đại học, gồm nhiều College/School (trường) như:

Trường khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn (College of Arts and Sciences): Đây là chữ thường dùng cho trường liberal arts như đã nói ở đoạn đầu, tức là gồm các ngành khoa học cơ bản như toán, vật lý, hoá học, và khoa học nhân văn như sử, kinh tế, chính trị, tâm lý, v.v.

Trường thương mại (College of business)

Trường sư phạm (College of education)

Trường kỹ sư (College of engineering)

Trường luật (School of  law )

Trường y khoa (School of  medicine)

Trường âm nhạc (School of music)

Trường nghệ thuật (College  of arts) v.v.

Khi gọi là “university” thì đại học gồm các trường như trên cộng thêm với trường sau cử nhân về  khoa  học  tự nhiên và nhân văn (thường được gọi là Graduate School of Arts and Sciences). Ngoài ra lại có thể còn thêm các trường chuyên nghiệp (mang tính dạy nghề) như dạy lấy bằng MBA (Master of Business Administration). Hầu hết các đại học gọi là “university” ít nhất có thêm chương trình học lấy bằng cao học (MA hay MS) và thường là cả bằng tiến sĩ (PhD hay DS). Các trường chỉ cấp bằng cử nhân thì thường gọi là college như đã nói ở trên.

Community colleges: có chương trình giảng dạy 2 năm, thường là chú trọng vào kỹ năng làm việc đáp ứng nhu cầu địa phương, thí dụ như khu vực nông nghiệp có thể cấp bằng chuyên về nông nghiệp; những trường này có thể chịu sự quản lý của cả bang và thành phố. Học sinh học xong được cấp Associates Degree (bằng cao đẳng), có thể ra đi làm hoặc chuyển lên trường college hoặc university để học tiếp.

Ở Mỹ, vào college of liberal arts (chương trình 4 năm) danh tiếng cũng khó như vào university danh tiếng. Các liberal  arts colleges thường có dưới 2.000 sinh viên. Bạn đọc có  thể  xem  về  các  college danh  tiếng  như  Williams college, Amherst college, Swarthmore college để thấy rằng vào đây cũng khó như vào Harvard, Yale, Columbia.

Các đại học nghiên cứu (university) có uy tín của Mỹ đều không có nhiều sinh viên, như:

Đại học MIT có 4.000 sinh viên cử nhân (undergraduate students) và 6.000 sinh viên cao học (graduate students) với 974 giáo sư, tức là 10 sinh viên 1 thầy giáo.

Harvard có 6.000 sinh viên cử nhân (undergraduate)và 12.000 sinh viên cao học (graduate) với 2.000 thầy giáo không kể thầy giáo y khoa, tức là 9 sinh viên 1thầy giáo.

Các trường college lại càng ít sinh viên, như:

Williams college ở bang Masschussets, với 2.000 sinh viên cử nhân, 271 thầy giáo, tức là 7 sinh viên 1 thầy giáo. Đây là trường chỉ chuyên dạy học sinh lấy bằng cử nhân (BA), nổi tiếng nhất Mỹ hiện nay, xin nhập học cũng khó như vào Đại học Harvard. Trường này mỗi năm chỉ nhận 500 học sinh.

Các đại học nghiên cứu ở Mỹ có đủ phương tiện và có số lượng giáo viên có khả năng giành giải Nobel có thể lên tới con số 100.

Vấn đề nghiên cứu ở đại học Mỹ

Nước Mỹ thực hiện nghiên cứu ở các công ty kinh doanh và ở các trung tâm nghiên cứu quan trọng của quốc gia như NASA và những trung tâm nghiên cứu có tên là National Laboratories (NB) và gồm những tên tuổi lớn như: Fermi, Los Alamos, Oak ridge, Brookhaven, Lawranace Livermore, Argone. Đây là những trung tâm nghiên cứu ứng dụng (và tất nhiên có liên hệ với đại học lớn để giải quyết vấn đề lý thuyết) về quốc phòng và các vấn đề lớn của quốc gia như năng lượng, hạt nhân. Ngân sách của các trung tâm này do Chính phủ Liên bang đài thọ. Những nơi này cũng đã sản sinh ra những nhà khoa học đoạt giải Nobel.

Tuy vậy nghiên cứu cơ bản thường tập trung ở các viện nghiên cứu nằm ngay trong đại học nghiên cứu, vừa giúp giáo sư tiếp tục nghiên cứu vừa giúp sinh viên tham gia nghiên cứu để hoàn thành luận án tiến sĩ (PhD). Những viện nghiên cứu này được các nhà hảo tâm, doanh nghiệp và đặc biết là chính phủ liên bang hỗ trợ.  Việc hỗ trợ nghiên cứu khoa học cơ bản của Chính phủ Liên bang thường thông qua tổ chức Quỹ Khoa học Quốc gia (National Science Foundation – NSF). NSF là nơi đề ra vấn đề nghiên cứu và xét duyệt cấp tài trợ trực tiếp cho các nhà khoa học thông qua viện nghiên cứu ở trường đại học. Ngân sách cho NSF do Quốc hội Mỹ quyết định.

Nhân cơ hội cũng cần nói qua về Viện Hàn lâm Khoa học Mỹ (National Academy of Science). Người được cử vào Viện là các nhà khoa học lớn của Mỹ. Nhưng cơ quan này được lập ra không nhằm nghiên cứu mà nhằm tư vấn cho Tổng thống Mỹ về những vấn đề khoa học khi Tổng thống hỏi tới. Khi được hỏi, Viện Hàn lâm sẽ lập ra một nhóm chuyên gia (có thể là thành viên hay không là thành viên của Viện) xem xét các kết quả nghiên cứu hiện có và làm bản báo cáo cho ý kiến; khi không có đồng thuận hoàn toàn thì bản báo cáo phải in cả ý kiến thiểu số. Vừa qua, Viện Hàn lâm đã có ý kiến về vấn đề nóng lên của trái đất (Global warming).

Vấn đề kinh doanh đại học ở Mỹ. Giáo dục ở Mỹ về cơ bản là giáo dục công lập, dù tư nhân có thể mở trường kinh doanh. Số liệu tính theo số học sinh ở dưới cho thấy điều này:

Tiểu học

(lớp 1 đến lớp 8)

Trung học

(lớp 9 đến lớp 12)

Đại học
Tổng số học sinh38,4 triệu14,8 triệu15,3 triệu
Công33,7 triệu (88%)13,5 triệu (91%)11,7 triệu (77%)
4,7 triệu (12%)1,3 triệu (9%)3,6 triệu (23%)

Nguồn: US Census Bureau, Statitstical Abstract of the United States2003.

Nhưng có thể khẳng định là hầu hết các đại học Mỹ, dù là  công  hay  tư,  đều không có  mục  đích  kinh  doanh, không có cổ phần viên hưởng lợi nhuận. Gọi là đại học công vì chúng nằm dưới sự quản lý về tài chính và nhận tiền tài trợ từ ngân sách tiểu bang hoặc thành phố. Gọi là đại học tư vì chúng không chịu sự quản lý của chính quyềnvề mặt tài chính.

Đại học tư hay đại học công đều có một hội đồng quảntrị (thường gọi là Board of Trustees hay Board of Regents) có nhiệm vụ gây quỹ, theo dõi tài chính, đề ra  phương hướng phát triển trường một cách tổng quát và bổ nhiệm hiệu trưởng (president). Ở đại học tư thì người trong hội đồng quản trị là do hội đồng quản  trị  đương nhiệm bổ nhiệm. Ở đại học công thì do thống đốc tiểu bang hoặc thị trưởng bổ nhiệm. Mỗi thành viên đều có nhiệm kỳ, thường là 5 năm, và tự giải nhiệm nếu không được bổ nhiệm lại. Trừ chủ tịch hội đồng là có lương khi làm việc toàn thời gian, các thành viên khác không có lương nhưng được trả chi phí tham dự các cuộc họp. Hội đồng quản trị thường bao gồm những thành phần sau: (i) những người có đóng góp lớn về tiền bạc cho trường và có uy tín để gây quỹ cho trường; họ thường nhận được phần thưởng là tên trường, tên khoa, tên một tòa nhà hoặc một phòng học mang tên họ; (ii) các nhà doanh nhiệp có thể vừa cho tiền, vừa sẵn sàng nhận sinh viên khi ra trường; (iii) các nhà giáo dục và văn hóa có uy tín; (iv) các nhà chính trị về hưu có uy tín. Nói chung, họ là những người vừa có uy tín, vừa năng động hoặc có tiền sẵn sàng đóng góp vào việc xây dựng uy tín cho trường.

Về mặt luật pháp, các trường tư phần đông đều tổ chức vô vị lợi (non-profit corporations) chịu sự kiểm tra của sở thuế và luật pháp và khi hội đủ điều kiện về quá trình hoạt động được luật pháp chứng nhận là công ty vô vị lợi. Công ty vô vị lợi không phải trả thuế doanh thu trên học phí thu được và không trả thuế trên lợi nhuận công ty (tức là nếu thu nhập lớn hơn chi phí thường xuyên). Lợi nhuận công ty đương nhiên được giữ lại để đầu tư phát triển vì trường không có cổ phần viên. Cái lợi thứ hai cho công ty vô vị lợi nhưng có tầm quan trọng hơn cả là việc luật pháp Mỹ cho phép những người đóng góp vào công ty vô vị lợi được trừ phần đóng góp khỏi thu nhập chịu thuế. Thí dụ một người làm ra 100.000 USD một năm tức là ở mức lợi tức chịu thuế 30% thì nếu người này đóng góp 50.000 USD vào hoạt động vô vị lợi, họ chỉ phải đóng thuế trên lợi tức còn lại sau khi đóng góp vào hoạt động vô vị lợi là 50.000USD. Ở mức lợi tức này, tỷ lệ thuế có thế thấp hơn, chẳng hạn 20%, như vậy sau khi đóng thuế là 10.000 USD họ giữ lại được 40.000 USD. Nếu không đóng góp vào hoạt động vô vị lợi họ mang về được 70.000 USD. Như vậy họ thiệt đi 30.000 USD nhưng giáo dục vô vị lợi thu được 50.000 USD. Đây là phương cách hay chính sách “nhân dân và nhà nước cùng làm” ở Mỹ để phát huy hoạt động vô vị lợi.

Mới đây ở Mỹ, vai trò kinh doanh của trường có mở rộng hơn do sự phát triển của ngành sinh học mà một số trường muốn lấy quyền phát minh (patent) về các kết quả nghiên cứu trong trường và do trường tự đài thọ hoặc hợp tác với tư nhân để tạo thu từ việc cấp quyền sử dụng cho doanh nghiệp. Hoạt động này và những hoạt động tương tự bị coi là hoạt động kinh doanh, không thuộc về hoạt động giáo dục, mà theo luật Mỹ, đáng ra phải được tổ chức thành những công ty kinh doanh độc lập với trường và phải chịu thuế thu nhập kinh doanh. Tuy nhiên nếu lợi nhuận đem đóng góp cho trường thì phần đóng góp này có thể trừ ra khỏi thu nhập chịu thuế của công ty kinh doanh.

Tài chính đại học công từ học phí là 19%, từ chính quyền trung ương 11 %, 36% từ chính quyền địa phương, phần còn lại 10% dựa vào đóng góp của nhà hảo tâm hoặc từ tài trợ nghiên cứu.

Đại học tư dựa nhiều hơn vào học phí (42%) và đóng góp của giới hảo tâm (20%) và kinh doanh phụ (21%). Như vậy đại học tư, đặc biệt là trường vô vị lợi, không nhất thiết dựa chủ yếu vào học phí. Nhiều trường tư danh tiếng chỉ dựa 40-50% vào học phí, phần còn lại là do thu nhập tạo ra từ việc đầu tư tài sản mà các nhà hảo tâm đóng góp cho trường và những đóng góp thường xuyên của các nhà hảo tâm, cựu sinh viên, và tiền tài trợ cho các công trình nghiên cứu của chính phủ hoặc hoạt động kinh doanh.

Dĩ nhiên ở Mỹ vẫn có những người lập ra đại học để kinh doanh, có chủ sở hữu và lợi nhuận thuộc về chủ sở hữu nhưng những đại học này chỉ là những trường dạy nghề. Họ phải chịu đóng thuế doanh thu và thuế lợi tức và hầu hết không được các hiệp hội công nhận tư cách đại học có uy tín  công nhận (accredited) là có tư cách đại học. Mỹ lại có không ít các đại học bán bằng tiến sĩ cho bất cứ ai. Những đại học này không nằm trong danh sách 4.300 đại học được công nhận là có tư cách đại học đã nói đến ở trên.

Tư cách đại học được công nhận

Việc được công nhận tư cách đại học, hay nói đúng ra, việc được chứng nhận (assessed and accredited) là điều quan trọng cho sự sống còn của đại học. Tư cách đại học là do các Hiệp hội các Đại học ở Mỹ (Association of American Colleges and Universities), một tổ chức có hội viên là tất cả các đại học, gồm tất cà các đại học danh tiếng nhất, công nhận. Ngoài việc chứng nhận toàn chương trình học của cả trường, từng phân khoa cũng cần được chứng nhận. Việc chứng nhận dựa vào đánh giá của Hiệp hội về số học sinh trên một giáo sư, bằng cấp và công trình của giáo sư, chương trình học, phương tiện học tập và nghiên cứu như thư viện, phòng thí nghiệm, v.v.  Hơn chục năm trước, phân khoa ngôn ngữ của trường danh tiếng bậc  nhất  như  Đại  học Columbia đã bị cảnh cáo rút chứng nhận nếu không nâng cấp chương trình.

Một trường có thể coi là trường rởm nếu không được chứng nhận.

Quản lý nhà nước đối với đại học

Đại học Mỹ hoàn toàn tự chủ và không chịu sự quản lý trực tiếp của chính phủ hoặc trung ương hay địa phương về chương trình giáo dục, nội dung giáo dục, bổ nhiệm giáo sư và tuyển sinh viên.

Đối với trường công thì chính quyền có quyền quyết định về mức ngân sách cấp cho đại học, nhưng việc quản lý tài chính và chương trình giáo dục cũng như nội dung khoa học là do hội đồng quản trị trường quyết định..

Các loại bằng cấp và đòi hỏi về mặt học thuật

Bachelor of Arts (BA)

Mục đích của chương trình 4 năm cấp bằng cử nhân là tạo cho học sinh có khả năng phân tích, đánh giá vấn đề, có đầu óc phán đoán khoa học, và trang bị được những tri thức cơ bản. Mục đích của chương trình không phải là nhằm trang bị cho học sinh trở thành những nhà nghiên cứu khoa học chuyên nghiệp, mặc dù cũng được thực tập qua các phương pháp nghiên cứu. Ngoài bằng BA cũng có bằng BS (Bachelor of Science) cấp cho học sinh hoàn thành chương trình học về kỹ  sư  hoặc  khoa  học  máy  tính  (computer science). Trước đây các chương trình kỹ sư có tính chất dạy nghề, nhưng hiện nay chương trình đó còn đòi hỏi phải học các kiến thức cơ bản.

Master of Arts (MA)

Đây là bằng cho chương trình học 2 năm sau cử nhân (BA). Chương trình này nhằm cung cấp cho sinh viên có kiến thức chuyên nghiệp, chuyên sâu hoặc có tính nghề nghiệp nhằm phục vụ thị trường lao động. Các môn học thường cũng giống như ở  chương trình  đại  học  4  năm nhưng chuyên sâu hơn. Các trường thường cho phép học sinh chọn hai cách: (i) thi tốt nhiệp ra trường; (ii) viết luận án ra trường. Luận án không đòi hỏi phải trình bày điều gì mới nhưng đòi hỏi nắm vững phương pháp nghiên cứu và vấn đề nghiên cứu. Tương đương với BS nhưng ở mức caohơn là MS.

Doctor of Philosophy (PhD)

Mục đích của chương trình này là đào tạo ra những nhà khoa học có khả năng nghiên cứu khoa học chuyên nghiệp. Chương trình đòi hỏi học thêm trên lớp một năm rưỡi hoặc hai năm nữa sau MA. Học sinh có thể được nhận thẳng vào chương trình PhD mà không cần có bằng MA, nhưng cũng cần ba năm rưỡi hay bốn năm lên lớp. Sau hai năm học các môn học thuộc chương trình MA, học sinh vào chương trình này đã có thể chọn giáo sư chính hướng dẫn làm luận án, có thể có ý hướng về đề tài muốn làm, và do đó giáo sư hướng dẫn có thể vạch ra những môn mà học sinh cần học thêm để có thể làm luận án (chẳng hạn như một môn toán đặc biệt nào đó) và phải lấy các lớp seminar về một vấn đề chuyên biệt trong đó học sinh trình bày vấn đề của mình hoặc nghe các giáo sư hoặc các sinh viên khác trình bày. Số tín chỉ và số giờ học hoàn  thành có  tính  bắt  buộc. Để trở  thành candidates (ứng  viên),  học  sinh  phải  qua  bốn  kỳ  thi  sát hạch, chẳng hạn như trong ngành kinh tế, học sinh phải qua sát hạch về kinh tế vi mô, kinh tế vĩ mô, và hai chuyến môn khác như toán kinh tế, kinh trắc học, tài chính nhà nước, thương mại quốc tế, v.v. Đây là sát hạch về kiến thức cơ bản và kiến thức mới nhất trong ngành chuyên môn, đòi hỏi quan trọng trước khi ứng viên có thể bắt tay vào viết. Có thể nói người hoàn thành được PhD (hay Doctor of Science trong ngành kỹ sư) là người có tri thức toàn diện, sâu và mới nhất trong chuyên môn mà họ muốn làm nghiên cứu, trên nguyên tắc là phải đọc tất cả các công trình đáng đọc được hoàn thành trên toàn thế giới. Nếu là về lý thuyết thì ứng viên phải đưa đến điểm gì mới, dù quan trọng hay không quan trọng, dù là quy luật hay phương pháp mới; nếu là ứng dụng thì ứng viên cũng phải ứng dụng vào điều gì, hoặc lĩnh vực mới hoặc sử dụng phương pháp mới để lật ngược hoặc bổ túc những phạm vi đã được nghiên cứu. Kết quả của nghiên cứu có thế chẳng có gì là quan  trọng ,nhưng nó phải chứng tỏ là ứng viên có khả năng nghiên cứu khoa học độc lập và biết sử dụng các phương pháp khoa học, xử lý phân tích vấn đề một cách khoa học .

Để lấy bằng PhD có cần phải có công trình xuất bản hay không?

Một sai lầm cần đính chính, mà thường lại do chính những người đã từng học ở nước ngoài đưa ra, là ở đại học Mỹ muốn có bằng PhD thì sinh viên phải có một, hai công trình đã được xuất bản ở những tạp chí chuyên môn. Điều này không đúng với cả những đại học nghiên cứu uy tín. Ba mươi năm trước, Đại học New York không đòi hỏi người viết bài này có bài nghiên cứu đăng báo chuyên ngành và hiện nay (2010) cũng thế, kể cả Đại học Harvard. Chương trình tiến sĩ kinh tế của cả hai trường đều có 6 đòi hỏi giống nhau như sau: (1) thi viết về lý thuyết kinh tế, (2) hoàn thành đầy đủ các lớp về phương pháp lượng và thống kê, (3) viết một bài nghiên cứu vào năm thứ hai, (4) thi vấn đáp về hai chuyên ngành do thí sinh tự chọn, (5) trình bày một hội thảo về nghiên cứu của mình và (6) viết luận án tiến sĩ.

 PhD khác MD hay JD như thế nào?

Để hiểu rõ về mục đích nghiên cứu của người có PhD, ta cũng nên biết qua về bằng MD (Doctor of  Medicine) tức là bằng bác sĩ. Đây là bằng nghề nghiệp. Dù họ phải học xong BA, sau đó học thêm 4 năm trường thuốc và 2 năm thực tập nhưng mục đích là để làm nghề bác sĩ chữa bệnh. Họ không được đào tạo để trở thành nhà nghiên cứu. Nếu muốn trở thành nhà nghiên cứu về y khoa, người có MD phải học lấy MA và sau đó là PhD.

Tương tự như vậy bằng luật, thường được gọi là JD (Juris Doctor), tức là bằng luật học 3 năm sau khi học xong BA. Đây cũng chỉ là bằng nghề nghiệp, học sinh sau khi lấy bằng này có thể ra thi lấy bằng hành nghề luật sư. Muốn đi vào nghiên cứu học sinh sẽ lấy bằng tương đương với MA là bằng MSL (Master of Law) sau 4 năm đại học; và sau đó là bằng DSJ (Doctor of the Science of Law) tương đương với PhD. Các trường luật cũng mở chương trình MSL cho người có bằng luật ở nước ngoài, chương trình thường chỉ có một năm, có tính chất giúp người nước ngoài hiểu biết về luật Mỹ, thường mang tính hữu nghị, không thể coi tương đương với chương trình MSL bình thường cho sinh viên Mỹ.

Mục tiêu của giáo dục đại học Mỹ qua chương trình đại học 4 năm

Ở Việt Nam, mục đích của đại học thường hướng tới đào tạo nhân tài. Thế nào là nhân tài? Nhân tài có thể hiểu đơn giản là người có sáng kiến, có khả năng, năng động, đóng góp thêm một bước quan trọng vào phát triển dù trong khoa học tự nhiên, nhân văn, thực nghiệm hay thuần lý; trong quản lý doanh nghiệp hay nhà nước, dù ở địa bàn địa phương, quốc gia hay quốc tế. Nếu nhân tài ở đây theo nghĩa là những người nổi  trội  và  hiếm  trong  xã  hội  thì trường học khó lòng đáp ứng được; nhưng điều trường đại học có thể làm được là trang bị cho học sinh kiến thức cơ bản, tinh thần phân tích độc lập, dám nghĩ, và biết nghĩ (nghĩ có phương pháp) để một học sinh có thể phát huy khả năng trở thành nhân tài.

Đại học Mỹ tỏ ra còn khiêm tốn hơn nhiều trong mục đích của giáo dục bốn năm đại học, tức là không đặt vấn đề đào tạo nhân tài; nhưng mục đích của họ phản ánh những điều nói ở trên. Một trường danh tiếng viết: “Mục đích của môi trường giáo dục và sinh hoạt sinh viên là đào tạo những cá  nhân  thành đạt  và  những  công  dân  có  trách  nhiệm. Người tốt nghiệp cảm thấy tự tin trong việc tìm hiểu rộng rãi nhiều vấn đề và kinh nghiệm ở môi trường đại học hay ngoài đời, dù là học bất cứ ngành chuyên môn nào.” Chữ thành  đạt (accomplished) có thể hiểu là có được vốn tri thức cơ bản, được sửa soạn kỹ càng để tự tin vào đời cũng như bước vào thị trường lao động (kiếm sống cũng như phát triển tri thức). Còn mục đích đào tạo thành những “công dân có trách nhiệm” (responsible citizens) thì quá rõ.

Trường đại học khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn (liberal arts colleges) hoặc là độc lập hoặc nằm trong một viện đại học (university) chính là linh hồn của đại học Mỹ, là nơi mà mục tiêu đào tạo con người cá nhân của hệ thống đại học Mỹ được thực hiện.

Chương trình  4  năm  của trường đại  học  khoa  học  tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn (liberal arts colleges) danh tiếng hoặc có tiếng không phải là dạy nghề mà là nhằm mục đích tạo ra những cá  nhân  thành đạt  và  công  dân  có  trách  nhiệm.Chính vì lý do này mà ở Mỹ, tnrớc khi vào học các trường chuyên nghiệp có tính nghề nghiệp như luật, y khoa, nha khoa, MBA, học sinh cũng phải qua bốn năm đại học để có được kiến thức cơ bản về tri thức và phương pháp phân tích.  Vài  ngành có  thể  đòi  hỏi  tới  5  năm  học.  Cũng  có trường đi vào ngành nghề ngay như bằng về kế toán,… nhưng họ vẫn cố gắng trang bị cho học sinh có hiểu biết cơ bản tối thiểu.

Bằng cấp từ colleges of liberal arts có thể là bằng về nhiều chuyên ngành như: toán, sinh học, vật lý, hoá học, sử, văn học, tâm lý, chính trị, ngôn ngữ học, triết học; âm nhạc,v.v. Nói chung, chương trình đại học 4 năm được tổ chức cơ bản như sau:

Chương trình 4 năm đại học ở Mỹ

Kiến thức cơ bản bắt buộc (trong đó có những lớp bắt buộc và những lớp tự chọn trong những ngành bắt buộc)1/3 chương trình
Ngành chính1/3 chương trình
Phần bắt buộc học

Phần tự chọn trong ngành chính

1/6 chương trình

1/6 chương trình

Phần tự chọn trong các ngành khác, sinh viên có thể lấy thêm một ngành chính khác, hoặc một ngành phụ và những lớp tự chọn thêm trong ngành chính1/3 chương trình

Việt Nam học được gì của Mỹ

Việc chuyển tinh thần tổ chức hệ thống đại học từ Mỹ sang Việt Nam không phải là dễ nhưng không phải không làm  được.

Ngày nay ở Việt Nam mọi ý niệm về tinh hoa đã biến mất mà chỉ còn lạị một thứ đại học đại trà, vàng thau lẫn lộn. Có lẽ đơn giản nhất là cần thiết lập lại một thứ kỷ cương trong hệ thống đại học công, phân biệt rõ:

Đại học nghiên cứu, cấp bằng PhD cần sàng lọc thầy và trò trên cơ sở khả năng nghiên cứu. Đây là những đại học tinh hoa của Việt Nam. Đại học cấp bằng cử nhân, có thể cho đến bằng MA, tùy theo khả năng của từng trường. Đại học cộng đồng/Đại học địa phương, mang tính huấn nghệ phù hợp với nhu cầu của địa phương.

Khả năng canh tân chương trình ở Việt Nam hiện nay bị giới hạn bởi mô hình tổ chức đại học ở Việt Nam.Trước tiên để hiểu những hạn chế gặp phải cần hiểu về những yếu kém của đại học Việt Nam, và do đó trước tiên cần biết qua về mô hình đại học Mỹ mà các nước trên thế giới hiện nay đang noi theo.

Đại học Mỹ (university) luôn mang tính tổng hợp, có nhiều trường thành viên (colleges), và mỗi trường lại có nhiều khoa khác nhau. Học sinh các trường chuyên nghiệp phải học chương trình kiến thức cơ bàn ở Trường khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn, mặc dù có khi được châm chước giảm thiểu đi một chút. Nhiều trường chuyên nghiệp chỉ có ở dạng sau cử nhân, tức là học sinh phải học xong Trường khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn rồi mới được nhận vào: đấy là trường luật, y khoa, và nhiều nơi là trường thương mại với chương trình MBA.

Với tổ chức như trên, Trường khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn là linh hồn của giáo dục đại học, vì ở đây có thể dễ dàng thực hiện chương trình kiến thức cơ bản, học sinh các ngành khác nhau có thể học chung và có thể lấy tín chỉ ở những trường hoặc khoa (ngành chính) khác trong cùng đại học cho chương trình tự chọn không thuộc ngành chính.

Đ ại  học  Việt  Nam  hiện  nay  vẫn  được  tổ  chức  như  là những ốc đảo, ốc đảo về tổ chức và ốc đảo về địa lý (theo nghĩa trường nhân văn ở một nơi, trường luật ở một nơi,trường khoa học tự nhiên, như toán, vật lý, hoá học, sinh học, ở một nơi khác). Khi đại học Việt Nam được tổ chức lại thành các đại học quốc gia hoặc đại học vùng thì việc tổ chức lại chỉ ở cái tên, với một tầng quản lý cao hơn ở phía trên, chương trình của đại học đã không tổng hợp lại, học sinh ở trường này không thể lấy tín chỉ ở trường khác và địa điểm khác biệt cũng làm cho việc lấy tín chỉ khó khăn. Ốc đảo về tổ chức cũng không cho phép thầy giáo kết hợp, trao đổi và nghiên cứu chung. Việc tổ chức ốc đảo này còn tiếp tục vì triết lý “khai thác sức mạnh tổng hợp” không được thể hiện trong chương trình giảng dạy ở mỗi trường. Thí dụ, nếu trường kinh tế rút ra khỏi đại học quốc gia/đại học vùng thành một trường độc lập. thì việc học toán chẳng hạn, nếu vẫn học ở những thầy dạy kinh tế thì rõ ràng là sẽ học từ một người chỉ biết sơ về toán. Ngược lại, muốn dạy về kinh tế môi trường mà không biết gì về hoá học hoặc nông nghiệp, lâm nghiệp hoặc không có cơ hội giao lưu với những người ở những ngành này thì mụe đích cũng chẳng khác gì chỉ nhằm tạo ra những người “khiếm thị”.

Dù với những trở ngại như trên, vẫn có thể canh tân chương trình nếu như lấy triết lý giáo dục đại học là đào tạo ra những người có kiến thức cơ bản.

Trích : Vũ Quang Việt- Đại học Hoa Kỳ – So sánh đại học Hoa Kỳ và Việt Nam. Sách: Festschrift-Kỷ yếu Đại học Humboldt 200 năm (1810-2010 ) – Kinh nghiệm thế giới và Việt Nam; NXB Tri thức-2014